Những điều cần biết về bệnh tăng huyết áp
Tăng huyết áp là một trong những nguy cơ hàng đầu gây tử vong trên toàn cầu. Tăng huyết áp là kẻ giết người thầm lặng và có rất nhiều nguy cơ gây biến cố nghiêm trọng về tim mạch cho người bệnh.
Tăng huyết áp là một trong những nguy cơ hàng đầu gây tử vong trên toàn cầu
Theo thống kê của Tổ chức y tế thế giới, tỷ lệ tăng huyết áp lên đến gần 20%. Đặc biệt tại Mỹ, theo những phân tích mới nhất được công bố bởi CDC, tỷ lệ tăng huyết áp lên tới gần 30%. Tỷ lệ tăng huyết áp tại Mỹ tăng dần theo độ tuổi, nghĩa là khoảng một nửa dân số Mỹ > 60 tuổi bị tăng huyết áp. Còn tại Việt Nam, tỷ lệ tăng huyết áp càng cao khi nền kinh tế phát triển hơn. Và nếu không có biện pháp dự phòng hữu hiệu thì đến năm 2025 sẽ có gần 10 triệu người bị tăng huyết áp. Thực trạng hiểu biết và kiểm soát huyết áp tại Việt Nam cũng rất đáng quan tâm khi chỉ có 23% là biết đúng các nguy cơ của bệnh tăng huyết áp. Trong khi đó, chỉ có khoảng 34% số người mắc tăng huyết áp được điều trị và trong số đó tỷ lệ kiểm soát được huyết áp chỉ là 11% (khảo sát của Viện Tim mạch Quốc gia Việt Nam năm 2008).
Làm sao để biết mình bị tăng huyết áp?
Theo WHO, chẩn đoán tăng huyết áp khi trị số trung bình qua ít nhất hai lần đo của huyết áp tâm thu ≥ 140 mmHg và/hoặc trị số trung bình của huyết áp tâm trương ≥ 90 mmHg, trong ít nhất hai lần thăm khám liên tiếp. Hiện nay, việc sử dụng máy đo huyết áp tại nhà rất phổ biến và vô cùng tiện lợi để người bệnh theo dõi bệnh tình. Việc đo huyết áp tại nhà để khẳng định chẩn đoán, cần đảm bảo các yếu tố sau:
-Mỗi lần đo huyết áp cần đo hai lần liên tiếp, cách nhau khoảng 1 phút ở tư thế ngồi.
-Cần đo huyết áp 2 lần/ngày, tốt nhất một lần vào buổi sáng và một lần vào buổi tối.
-Cần đo huyết áp liên tục ít nhất trong 4 lần/ngày và lý tưởng nhất là 7 ngày. Loại bỏ ngày đầu tiên và sử dụng giá trị trung bình của các lần đo còn lại (≥135/85 mmHg) để khẳng định chẩn đoán.
Trong quá trình chờ đợi để khẳng định tăng huyết áp, cần tiến hành các thăm dò để phát hiện các tổn thương cơ quan đích (như thận mạn tính, phì đại thất trái, bệnh đáy mắt do tăng huyết áp) và đánh giá nguy cơ tim mạch.
Ngoài ra, người có huyết áp bình thường cần đo lại huyết áp sau mỗi 2 năm và người tiền tăng huyết áp nên thực hiện việc thay đổi lối sống và kiểm tra lại sau mỗi 1 năm.
Nguyên nhân nào gây tăng huyết áp?
Hơn 90% tăng huyết áp là vô căn hay còn gọi là tăng huyết áp nguyên phát. Còn lại là tăng huyết áp thứ phát – tức là có nguyên nhân rõ ràng như tim, thận…. Tăng huyết áp do bệnh mạch thận dù chỉ chiếm 2-3% số người bị tăng huyết áp nhưng cũng là một trong những nguyên nhân hay gặp nhất của tăng huyết áp thứ phát. Phần lớn tăng huyết áp do bệnh mạch thận là do liên quan trực tiếp tới giảm tưới máu thận, hậu quả của hẹp động mạch thận, hoặc một trong những nhánh của chúng. Ngoài ra, còn có sự thay đổi của hệ thần kinh thể dịch do sự hoạt hóa không phù hợp hệ thống các hormone chống bài niệu làm rối loạn chức năng bài natri niệu do tăng huyết áp và dẫn đến tăng huyết áp mạn tính.
Tăng huyết áp – kẻ giết người thầm lặng
Bệnh tăng huyết áp ít triệu chứng nhưng lại có rất nhiều biến chứng nghiêm trọng
Bệnh tăng huyết áp ít triệu chứng nhưng lại có rất nhiều biến chứng nghiêm trọng cho bệnh nhân và để lại hậu quả nặng nề cho gia đình và xã hội. Bệnh có rất nhiều biến chứng, được kể đến như cơn đau thắt ngực, nhũn não, xuất huyết não, suy thận, tăng áp động mạch võng mạc, rối loạn tiền đình, mù lòa…Khi bệnh nhân không được điều trị đúng cách sẽ rất nguy hiểm và nguy cơ biến chứng nặng tăng lên rất nhiều. Vậy mục tiêu khi điều trị tăng huyết áp cho bệnh nhân là gì? Đó chính là nguyên nhân thứ phát (nếu có), nếu không điều trị được nguyên nhân, hay đó là tăng huyết áp vô căn thì mục tiêu điều trị là nhằm loại bỏ yếu tố nguy cơ, kiểm soát mức huyết áp đề phòng biến chứng.
Điều trị tăng huyết áp hiệu quả?
Các thử nghiệm lâm sàng cho thấy, điều trị tăng huyết áp làm giảm biến cố tim mạch. Tuy nhiên, trên thực tế vai trò của thuốc hạ áp đối với dự phòng đột quỵ và tử vong do bệnh mạch vành lại không cao. Có rất nhiều lý do dẫn đến điều này như: tỷ lệ bệnh nhân được điều trị đủ liều thấp, thiếu quan tâm đến các yếu tố đi kèm, mức huyết áp để bắt đầu điều trị và huyết áp mục tiêu quá cao.
Làm sao để kiểm soát huyết áp?
Mục tiêu điều trị hạ huyết áp tối ưu ở hầu hết các bệnh nhân không có nguy cơ cao là < 140/90 mmHg. Việc kiểm soát huyết áp tích cực hơn không mang lại lợi ích rõ ràng mà còn làm tăng chi phí và tác dụng phụ của thuốc. Điều trị tăng huyết áp có thể dùng thuốc hoặc không dùng thuốc. Nhưng cần sự tuân thủ lâu dài của người bệnh. Thông qua việc theo dõi huyết áp thường xuyên tại nhà và ở phòng khám, chỉnh liều thuốc hạ áp một cách thích hợp, để đạt mục tiêu huyết áp chấp nhận được.
Việc thay đổi lối sống bao gồm: giảm cân, giảm ăn muối và chất béo bão hòa, giảm lượng calo trong chế độ ăn, tập thể dục đều đặn và uống rượu bia vừa phải…đều là những yếu tố quan trọng trong hướng dẫn điều trị.
Tăng huyết áp là một căn bệnh phổ biến và nguy hiểm. Chính vì vậy, bệnh cần được chấn đoán và điều trị sớm nhằm ngăn ngừa các biến có nguy hiểm về tim mạch.